Tịnh Độ Cư Sĩ Phật Hội
Việt
Điều Lệ Người
Mới Nhập Môn
Lễ
Thành Tỏ Ngộ Máy Thiền Gia
Bái Phật
Cầu Về Chín Phẩm Hoa
Lục
Tự Ǵn Ḷng, Thông Mối Đạo
Phương Mầu Dành Để Độ Ta Bà
Người mới
nhập môn phải giữ sáu (6) điều:
1. Thọ Tam Quy: Thọ là
lănh, vưng chịu, tam là ba (3), qui có nghĩa là tuân giữ theo, cũng c̣n có nghĩa là trở về (nghĩa
là sửa đổi ḷng vọng ra chơn, đặng y
theo Giáo Lư của Phật). Tam
Qui là: Quy Y Phật, Quy Y Pháp, và Quy
Y Tăng.
Quy Y Phật: Quy Y Phật
có nghĩa là tuân theo Phật, nguyện y
theo Phật.
Phật là bực toàn giác, toàn minh, thoát ly ra ngoài biển khổ. C̣n chúng sanh th́ say mê theo
bể ái trầm luân, chịu luân hồi đời đời
kiếp kiếp. Bởi không
biết là khổ là khổ mà trở lại cho khổ là
vui, nên phải vơ vẫn trong biển
luân hồi, đời đời chịu khổ: Sống
khổ, đau khổ, già khổ, chết khổ.
Nay ta muốn lướt
qua biển khổ đến bến Bồ Đề, th́
ta phải tuân theo Phật, phải làm y
theo lời Phật. Trong cơi Ta Bà này, Giáo Chủ là Phật Thích Ca Mâu Ni,
là Bổn Sư của chúng ta.
Ta làm y theo
Phật th́ không chấp tướng ta với tướng người,
không chia rẻ kẻ lạ người quen, giống này da
khác, cũng không phân biệt giai cấp, sang hèn quyền quư
chi cả. Chỉ
giữ một ḷng b́nh đẳng mà giúp đời, v́ người
người đều có Phật Tánh. Kinh Niết Bàn có câu “Tất cả
chúng sanh đều có Phật Tánh (Nhất Thiết Chúng Sanh
Giai Hữu Phật Tánh – Hán văn-). Ta đă muốn giúp đời, th́
ta phải có ḷng Từ Bi như Phật: Ḷng Lành rải khắp
sự vui cho chúng sanh. Ḷng Thương
hay vớt khổ chúng sanh (Từ: giă năng phổ chúng
sanh chi lạc; Bi: giă năng bạt chúng sanh chi khổ).
Vậy
ta phải có ḷng từ thiện, yêu nhơn loại, bố
thí giúp đỡ kẻ đói rách khốn nàn. Phải tịnh
tâm, nhẫn nhục, độ lượng khoan dung, phải
an vui với đời mà chịu những điều cực
nhọc, phải học theo hạnh Phật
Thích Ca lo cứu người thoát khổ, phải coi cái nghiệp
duyên chung của quần chúng là trọng đại hơn
nghiệp duyên chung của cá nhân.
Như vậy mới trúng lư nhiệm mầu
và khỏi trái ḷng Từ Bi của Phật. Như thế là gọi là Quy Y Phật (Xem thêm:
Lục Tổ giăng lư Quy Y Phật ở trong Pháp Bảo Đàn
Kinh)
Quy Y Pháp: Quy y Pháp
nghĩa là tuân theo Pháp (phép) của Phật
dạy, tức là Kinh, Luật, Luận.
Kinh: Khi Phật c̣n tại thế (nghĩa
là chưa nhập Niết Bàn), Ngài đi Ta Bà giảng dạy
chúng sanh trong 49 năm, gọi là thuyết Pháp, hoặc Ngài bảo
các vị Bồ Tát giảng, rồi sau các đệ tử
tu hành đắc đạo, gia công biên chép lại những
lời giáo huấn của Phật (có đủ nghĩa thấp
cao, rộng hẹp) ra từng tập, lưu truyền cho đến
ngày nay, gọi là Kinh Phật. (Kinh c̣n có nghĩa là đường
đi. Kinh Phật là con đường
đi đến thành Phật.)
Luật: Luật là Giới Luật, như Ngũ
Giới, Thập Giới, v.v... Phật chế giới luật
rơ ràng, xuất gia hay tại gia, các chơn Phật Tử phải
nương theo giới luật mà tu hành:
Làm lành, tránh dữ. Học Phật,
tu Phật mà không giữ giới, cũng như người
đi đêm tối mà không đèn không đuốc, phải
vấp ngả chẳng sai.
Luận: Luận là luận bàn. Sau khi Phật tịch
diệt, có nhiều vị cao tăng tu hành đắc đạo. V́ thấy Phật Pháp cao sâu nhiệm
mầu mà phần nhiều người hiểu lầm rồi
làm sái, cho nên ra công viết sách, giải nghĩa lư cho rơ ràng
minh bạch, gọi là tạng luận.
Phật giáo có tám muôn
bốn ngàn pháp môn (nhưng không phải là số nhất định
v́ theo tục ngữ bên Ấn Độ
kêu “Tám muôn bốn ngàn” để thay thế cho câu “Nhiều
lắm không xiết kể.”) Lập
một pháp môn nhiều như vậy là tùy theo
căn cơ, phương tiện cho chúng sanh, ai tu pháp nào cũng
đặng.
Vậy
người tu hành cần phải suy nghĩ cho biết rơ
chân lư mà tu hành để khỏi lầm đường lạc
nẻo, mới có thể thoát ṿng khổ ải.
(Xem thêm: Lục Tổ
giăng lư Quy Y Pháp ở trong Pháp Bảo Đàn Kinh)
Quy Y Tăng: Quy Y Tăng
là tuân theo ông thầy giảng dạy Phật
Pháp. Tăng theo
tiếng Phạn là Sangha, dịch là Tăng Già, nghĩa là ḥa
hợp. Tăng Già là những
người, hay các vị Đại Đức, các vị
Ḥa Thượng dạy đạo chơn chánh, và đă thông
suốt đạo lư (Không có nghĩa là mặc áo ca sa th́ là
một vị Tăng mà bắt người ta phải theo ḿnh
trong khi ḿnh không có đạo đức, không tơ rành đạo
lư, và không dạy đạo một cách chơn chánh. Tăng là Tăng cái tâm chứ không
phải là Tăng h́nh tướng)
Nay ta được
biết Phật, biết phương pháp tu hành là nhờ ông
thầy dạy ta học Phật. Vậy người
tu hành theo Phật Giáo phải noi theo gương
của ông thầy và phải vưng chịu lời chỉ
bảo chơn chánh. Nhưng mỗi người đều có cái lương
tri, lương năng, biết phân biệt đâu là thật
và đâu là giă. Nếu biết
là chơn th́ phải cứ thiệt hành đi, không nên chần
chờ, tinh tấn tu hành lập công bồi đức, t́m
hiểu cái lư “Sanh
tùy hà xứ lai, tử tùng hà xứ khứ: có nghĩa là ḿnh
bởi từ đâu sanh ra, rồi chết sẽ về đâu...”
Nếu lăo thông cái nghiệp trái
trần duyên, chừng ấy tâm ḿnh thường thanh, thường
tịnh, không động, không xao, mới mong siêu thoát tam giới,
chứng quả Niết Bàn
(Xem thêm: Lục Tổ
giăng lư Quy Y Tăng ở trong Pháp Bảo Đàn Kinh)
2. Tŕ Ngũ Giới:
Tŕ là cầm, nắm,
giữ ǵn; Ngũ là năm; Giới là răn,
dặn ḍ. Ư nói ta dặn ḍ ḷng
ta, phải nắm giữ bo bo cái ḷng răn
dè đó, đừng cho nó hở ra như ta nắm giữ
châu báu trong tay sợ mất vậy. Có câu “Đặng một điều
lành bo bo nắm giữ vào ḷng đừng
cho rớt mất.”
Người phát tâm tu
hành, trước hết phải giữ tṛn năm điều
răn:
Người giữ
tṛn năm điều răn ấy, tức là giữ được
trọn Nhân Cách: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Giới Thứ
Nhất: Cấm Sát-Sanh.
Cấm người
giết hại lẫn nhau, cùng loài động vật; Các
giống ấy đều có tánh như người; Nó cũng
tham sống, sợ chết, cũng có đôi bạn, cũng
sanh đẽ, cũng biết khát uống, đói ăn, biết
đau, biết nhức, sợ đánh, sợ đâm, nó cũng
biết đền ơn trả nghĩa. Vậy nở nào ta sát hại sanh
mạng chúng nó cho đành.
Động
vật đồng một bản thể với loài người,
và nếu chúng nó biết tu, th́ cũng thành Phật như chúng
ta cũng sẽ thành vậy. Kinh Niết Bàn nói: Chúng
sanh đều có Phật tánh. Theo luật thế gian, giết người th́ phải
thường mạng. C̣n trong luật nhân quả của trời đất
th́ lại gây cuộc oan trái, luân hồi quả báo cho hậu
thân. Muốn tránh tội
sát sanh, không chi bằng ăn chay. Ăn chay có nhiều bực như:
Ăn chay theo sóc vọng (một tháng hai
ngày); Ăn chay theo lục trai (một tháng sáu ngày); Ăn
chay theo thập trai (một tháng mười ngày), trường
chay (ăn luôn, không c̣n dính tới máu thịt của động
vật nữa).
Giới Thứ
Hai: Cấm Trộm Cắp.
Không đặng cướp
giật (hoặc là dùng sức mà giật, hoặc dùng quyền
uy mà lấy, hoặc là dùng áp lực mà lấy), mưu kế,
hay lường gạt mà đoạt tài sản, người,
hay vật của người.
Người
đời thường coi của tiền quá trọng, túi
tham không đáy, tham muốn không cùng, nên mới sanh ra cái tội
trộm cắp lường gạt. Thử tự
hỏi: Ḿnh mất tiền mất của có ưu sầu
tiếc nuối hay không? Ai ai cũng
trả lời rằng: có. Thế th́ mất tiền, mất của th́ có ai lại
không ưu sầu tiếc nuối như ḿnh.
Như vậy,
th́ nở ḷng nào trộm cướp lường gạt của
người cho đành. Có lắm người
v́ bị trộm cắp mà phải khốn cùng. Có nhiều người
bị lường gạt mà phải quyên sinh. Thánh nhơn có dạy rằng: Kỷ
sỡ bất dục, vật thi ư nhân: Có nghĩa là điều
ǵ ḿnh không muốn, th́ đừng làm cho người. Làm lành th́ thường bửa an vui, gây dữ có ngày mang hoạ. Đó là lẻ cố
nhiên ai ai cũng đều biết.
Nếu mỗi người
đều phát tâm tu hành, chẳng màng ăn ngon, mặc tốt,
ở đẹp, th́ tất phải tuyệt đặng cái
ḷng tham; Lại c̣n tu hạnh Bố Thí: Nếu có tiền có của lại
có thể cho người, giúp người, cho đến lời
nói cũng hằng khuyên người hướng thiện,
th́ nhân loại đâu đâu cũng sẽ đặng thái b́nh.
Giới Thứ
Ba: Cấm Tà Dâm
Tà Dâm là
tội xâm phạm xác thịt của vợ-chồng, con, em,
chị, hay mẹ của người. Gian dâm với vợ chồng người, ắt
sẽ xảy ra việc đánh giết oán thù. C̣n như gian dâm con em người,
làm cho gia đ́nh người danh tiếng bị nhơ, bị
thai nghén làm tan nát tương lai của họ. Có nhiều gia đ́nh
hạnh phúc tiêu tan, có người lắm lúc phẩn chí tự
tử. Nếu như không
ai biết, th́ tự bản tâm của người cảm
thấy bị nhơ uế, luôn mang mặc cảm với
hành vi trái đạo. C̣n kẻ không một
chút hối hận, lại bị đọa vào cầm thú. C̣n như dính líu với
các nơi thanh lâu lại có thể mang trọng bệnh cho
chính bản thân và cho người phối ngẩu của ḿnh. Một chút tham dâm
mang lại bao ác nghiệp như vậy, người tu phải
tránh xa việc này.
Người giữ
giới tà dâm không sanh ḷng tà ngoại: Chồng giữ phận chồng,
vợ giữ phận vợ.
Nói tóm lại:
Giới Thứ
Tư: Cám Nói Dối
Nói Dối
là một sự rất độc ác; Nói dối chẳng
qua muốn lợi cho ḿnh. Hễ nói thêm th́ dư
cho người, cũng là hại. C̣n nói thiếu cho người,
cũng là nguy.
Thường ở đời
lắm khi bị nói thêm, nói bớt, hoặc bị dối
trá lường gạt mà hậu bạn phải chia ĺa, cửa
nhà tan nát, làm cho cha xa con, vợ xa chồng, người bị
khốn khổ với chính quyền, pháp luật, người
làm ăn buôn bán mất tín nhiệm, mất tài của, các nước
láng giềng hục hặc với nhau gây chiến tranh, bị
giảng dạy giáo lư tà ngoại mang bao điều hứa
hẹn không sự thật và tin theo cho đến lúc mất
đi lại bị xa vào đường ác không ngày ra, tự
xưng ḿnh là đạt đạo, tự xưng ḿnh là Phật,
là Bồ Tát, dối gạt người v.v... Sự nói dối, điêu ngoa, vu vạ
là việc làm độc ác, tai hại nhất
mà người tu phải hết sức tránh xa. Nhất là trong lúc giảng dạy
đạo pháp cho người...
Người xưa đă
có nói: Hễ nói nửa câu nói quấy th́ gặp sự tổn
đức liền. V́ thế
Phật khuyến cáo các Phật Tử cấm không được
nói điều dối trá, cấm đem việc người
mà ton hót dù có thật hay không, vạch lỗi người
cho người khác thấy, và cấm không được làm
các khẩu nghiệp “Khi phàm dối Thánh “ tai hại như
trên. Trừ khi bị
dồn vào thế kẹt mà phải trả lời th́ có sao,
thưa lại như đă được nghe hay thấy,
chứ có đâu mà dây dưa vào các khẩu nghiệp như
trên. Người tu hành,
muốn tránh khẩu nghiệp, chớ nói dối hay dây dưa
vào việc người, chớ có phóng đại khoét lác,
chớ có khoe khoan, chớ có lừa bịp, th́ mới tránh đặng tội
vọng ngữ.
Giới Thứ
Năm: Cấm Uống Rựu
Rựu hay các thứ
hóa chất như cần sa, ma túy, hồng ma, thuốc lá,
v.v. làm cho người bị say, bị ghiền, bị hao
tốn tiền bạc, bị tổn hại xác thân. Các thứ hóa chất
như thế dùng vào th́ làm cho người khôn lanh biến
ra thành người khờ dại, cơ thể lâm bịnh. Như có rượu
vào th́ người uống không giữ miệng, sanh lắm
điều tác tệ. Khi
cơn ghiền đến hay trong lúc say sưa th́ việc ác
nào cũng có thể làm, dầu cha mẹ, vợ, con, bậu
bạn cũng không kể đến. Chúng nó làm cho con người mê muội,
quên mất tất cả.
Ví như rượu
uống vào th́ hừng chí, ngũ tạng
sao động, lửa ḷng phừng lên, tâm tánh rối loạn
không phân biệt tà chánh. Các phái nữ với rựu, ma túy vào th́ bị hăm
hiếp, tiêu tan đời.
Các phái nam, hoặc lâm vào việc cải cọ đánh
nhau đâm chém nhau, hoặc là sa vào lưới pháp luật,
hoặc bị trọng thương, hoặc bị chết,
hoặc say sưa đầu đường xó chợ, tương
lai mờ tối, mất gươm trí tuệ, tương
lai mờ dần, người đàng hoàng đứng đắn
không muốn lại gần.
V́ vậy,
ngày xưa Phật cấm uống rượu, để được
tâm tánh vững vàng, yên thần, lặng trí. Ngày nay, tất cả các hóa chất làm cho cơ thể
nôn nao, mê loạn, bịnh hoạn đều nằm trong giới
cấm này.
Ngũ giới được
lập thành là do Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
(Vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Huệ Đệ Nhất)
bạch cùng với Phật Thích Ca, xin lập ngũ
giới để chế phục kẻ hạ đẳng
đừng làm quấy. Từ đấy lưu truyền đến
nay (do kinh Huệ-Mạng)
3. Công Phu Tứ
Thời:
Là thời gian dùng để
lễ bái Phật trong bốn thời: 6 giờ sáng, 12 giờ
trưa, 6 giờ chiều, 12 giờ khuya. Trước khi lễ bái phải y
phục chỉnh tề, quỳ trước bàn Phật, thành
tâm đọc bài công phu tứ thời, rồi lễ 24 lạy
(nếu bận việc hoặc trong người không khoẻ,
lễ 6 lạy), lạy xong, đứng dậy, xá 3 xá trước
bàn Phật, kế xoay theo phía tay trái ra phía sau xá ba xá, và xoay
trở lại trước bàn Phật xá ba xá là đủ
(Nếu lễ bái đủ sáu hướng y theo lời dạy
trong Lễ Bái Lục Phương th́ càng tốt)
Đây là bài nguyện
công phu tứ thời:
Nam Mô Tây Phương
Cực Lạc Thế Giới Tiếp Dẫn Đạo Sư
Đại Từ Đại Bi A Di Đà
Phật (Xá 1 xá)
Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (Xá 1 xá)
Nam Mô Long Hoa Đại
Hội Giáo Chủ Di Lặc Tôn Phật (Xá 1 xá)
Nam Mô Đại Từ
Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại
Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát (Xá 1 xá)
Nam Mô Đại Từ
Đại Bi Đại Hỷ Đại Xả Minh Trí Bổn
Sư (Xá 1 xá)
Đệ tử cúi
xin Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni, Chư Phật, Hiền, Thánh,
Tăng chứng minh cho đệ tử (họ và tên, tuổI),
vẹn giữ một ḷng ngay thẳng, cầu cho Huệ Tâm,
Huệ Tánh, Huệ Nhăn, Huệ Nhỉ, Huệ Tỉ, Huệ
Khẩu, siêu phàm nhập Thánh, tế độ quần sanh,
tổng giai thành Phật Đạo, chung quy trực văng Tây
Phương
4. Trai Kỳ
Ăn chay hai ngày trong một tháng: Ăn chay mùng 1 và 15 (rằm).
Ăn chay bốn ngày trong một tháng: Mùng 1,
14, 15, và 30
Ăn chay sáu ngày trong một tháng: Mùng 1, 8, 14,
15, 23, 29 hay 30
Ăn chay mười
ngày trong một tháng: Mùng 1, 8, 14, 15, 23, 24, 27,28,29
và 30
Ban đầu th́ thọ
trai mấy ngày cũng được, sau đó ít nhất là
10 ngày.
5. Tŕ niệm Lục Tự Di Đà
Tŕ là cầm, nắm,
giữ ǵn, niệm là ghi nhớ, Lục Tự là sáu chữ
Nam Mô A Di Đà Phật. Tŕ niệm Lục Tự A Di Đà là ư nói dặn ḍ nơi ḷng cầm nắm,
giữ ǵn, ghi nhớ sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật đừng
cho xen hở (những tư tuởng xấu, không lành). Lúc bận việc,
lo toan tính, buôn bán th́ tạm dừng. Ngoài ra, khi rảnh th́ phải luôn
luôn ghi nhớ niệm sáu chữ Nam Mô A
Di Đà Phật.
Niệm
Phật c̣n có ư nghĩa là diệt vọng tâm, tức là làm
cho ḷng ḿnh được trong sạch (thanh tịnh). Đó là ư
nghĩa chánh, c̣n ư nghĩa phụ th́ niệm Phật là một
phương tiện trừ các thói hư tật xấu (Tâm
tham lam, tâm nóng giận, tâm ham muốn vô lối, tâm ghen ghét,
v.v)
Niệm
Phật là ghi nhớ, tưởng nhớ đến Phật. (Phật đây
là Phật A Di Đà, Giáo Chủ của Tịnh Độ Tông. ) Niệm Phật có nhiều cách,
nhưng công hiệu nhất là lối tŕ danh niệm Phật.
Những sự hành động
của con người về ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ư dù
trải mấy trăm năm, cũng không hề tiêu mất. Niệm tưỡng
nào được lập đi lập lại th́ niệm tưỡng
ấy khó diệt, khó tan mất. Mỗi lời nói, mỗi ư nghĩ,
mỗi việc làm đều có ghi lại h́nh ảnh mà mắt
phàm không bao giờ thấy được nên tạm gọi
là vô h́nh, chứ thực sự là nó có hữu h́nh, v́ nó có sống,
có hoạt động, chứ không phải là h́nh cây tượng
gổ.
Như ta tưởng
niệm đến danh hiệu cùng là kim
thân của Đức Phật A Di Đà, th́ cái tư tưởng
ấy nó hiện nguyên h́nh y như lúc ta niệm tưởng. Dù niệm tưởng đời
hay niệm niệm tưởng đạo, hay các tư tưởng
thầm kín nhất, cũng đều được ghi lại. Nếu như cái tư tưởng
đó chỉ thoáng qua vài giây rồi tan biến, th́ cái h́nh ảnh
và ảnh hưởng của nó cũng sẽ bị tan rả
trong ṿng rất ngắn thời gian. C̣n như cứ lập
đi lập lại th́ cái tưởng ấy ăn sâu vào A Lại Gia Thức và là cái nhân và
quả cho con người sau này của ta vậy.
Nếu như niệm
Phật lâu bền, th́ cái h́nh ảnh ấy được
trưởng dưỡng và càng mănh liệt, và có sức lực
hấp dẫn vô biên không thể lường được
(Mạnh hơn cả ánh sáng mặt trời, nhưng chúng
ta bị kẹt trong tấm thân bao trùm bởi ngũ ấm nên không thể thấy được
và cảm nhận được).
Những h́nh ảnh do người niệm Phật tạo
ra là một vũ trụ ánh sáng.
Khi lâm chung, thần thức bị vũ
trụ ánh sáng này thu hút đúng theo luật Hấp Dẫn. Trong vũ trụ ánh sáng ấy, có
đủ Y Báo và Chánh Báo.
Y Báo: Thuộc
về cảnh vật. Dày công
niệm Phật, Phật tử thọ hưởng một
hoàn cảnh tốt đẹp, đầy đủ lạc
thú do nhiều kiếp trước tu hành lập công bồi
đức, bỏ xác về cơi Tây Phương. Phật tử dù chưa
lịch kiếp tu hành, cũng đủ cảnh vật Y Báo. Y Báo tại đây, do công hạnh
của Phật A Di Đà tạo ra, nên có
sẵn.
Chánh Báo: Thuộc
về thân căn. Sở dĩ người nào ngày nay sắc thân lành
lẻ, mạnh khoẻ, tốt đẹp, cùng là thông minh
trí tuệ là nhờ nhiều kiếp trau dồi tịnh đức.
Nếu như được
văng sanh về cơi Tây phương th́ từ công đức và
phước đức của ḿnh, cộng với bản
nguyện của Phật A Di Đà, thời
đồng được thân căn sáng đẹp và b́nh đẳng
như các bực Đại Thánh.
V́ thế, các Phật
tử phải bỏ các điều tranh chấp và các điều
phi pháp, một ḷng niệm Phật, tu hành chân chính, cầu về
cơi Cực Lạc kia. Chớ v́ những món
lợi nhơ, các điều tranh chấp giả tạm mà bỏ
phí cơ hội như trên.
Nên phải biết, nếu
như được làm vua lớn hoặc quan lớn, vị
tất đă được sống lâu quá trăm năm, đầy
đủ mọi việc buồn phiền lo lắng, thân có bệnh,
thân già xấu theo thời gian, thân và tâm không được
an vui nhiều, không được việc cầu như ư,
không được trường thọ, không được
thần thông, không được gần gũi các bậc
Hiền Thánh, không được Y báo và Chánh báo tốt đẹp,
và không được chắc chắn thành Phật... Làm vua mà cũng không bằng được
một phần triệu triệu, th́ tại sao bây giờ lại
ngu si tranh dành với thế gian các việc
giả tạm không bền mà làm ǵ?
6. Phải Đến Chùa Lễ Phật
Ngoài các ngày vía Phật,
mỗi tháng ít nhất phải đến chùa (Giáo Hội gần
nhà th́ rất tốt, nếu không cứ đi đến các
chùa) 2 lần: Vào mùng 1 và ngày rằm (15). Trước lễ
Phật và nghe pháp, sau gặp các huynh đệ trau dồi sự
tu học, lập công bồi đức, hầu được
phước túc huệ túc mau đạt đến chỗ
hoàn toàn giải thoát.
Trang Nghiêm Tịnh
Độ:
Trang Ghiêm Tịnh Độ
có hai thứ: Một thứ thuộc về tu nhân, một
thứ thuộc về chứng quả.
Tu nhân là
nói người niệm Phật ra công trau giồi các đức
tánh thanh tịnh, nghĩa là làm cho ḷng ḿnh trở nên cơi Tịnh
Độ. Tâm là Tịnh Độ,
Tịnh Độ là tâm. Tâm thanh tịnh th́ cơi Phật được Thanh
Tịnh (Kinh Duy Ma Cật – Kinh Kim Cang). Đó là trang nghiêm Tịnh
Độ ḷng ḿnh.
Chứng
quả là nói khi nguời niệm Phật trang nghiêm tịnh độ
ḷng ḿnh xong, th́ được chứng quả Phật. Khi chứng quả Phật bèn trang nghiêm một quốc
độ dành cho các người niệm Phật cầu văng
sanh. Một
vị Phật được quyền trang nghiêm bao nhiêu cơi
Tịnh Độ cũng được. Mỗi vị Phật
phải giáo hóa Tam Thiên Đại Thiên Thế giới (33 ngàn
triệu thế giới).
Ấy gọi là tự giác, giác tha, giác hạnh
viên măn.
Tŕ danh
niệm Phật tức là Tŕ Thử Nhất Tâm. Trong sách Phật
thường nói: Tâm, Phật, và Chúng Sanh ba món không sai khác. Không sai khác tức là
ǵ? Vậy
th́, ông Phật sở niệm (A Di Đà) với cái tâm năng
niệm cũng chỉ có một.
Khi nói nhứt tâm th́
biết rằng đó chỉ là cái tâm Phật. C̣n chúng sanh
th́ có vô lượng tâm: Tâm tham lam, tâm sân hận, tâm si mê, tâm
thương ghét, tâm vô kư, tâm biếng nhát, v.v. Đó là do không
được đến cảnh nhất tâm, mà c̣n bị
mê nhiễm nhiền việc trần thế. Khi nhất tâm niệm
Phật, th́ tạm thời những cái tâm mê nhiễm ấy
không có, mà chỉ c̣n có cái tâm niệm Phật. V́ lẽ ấy, người xưa
mới gọi niệm Phật là “tŕ thử nhất tâm”, gọi
nôm na là thành Phật.
(Cập nhật
(6/24/2002) từ bản in đề ngày “In lần thứ nhất,
23 tháng 8 năm Đinh Mùi (tức năm 1967) của Hội
Quán Trung Ương - Cập nhật bởi cư sĩ Thiện
Quang- cho phù hợp với tŕnh độ của con người
thời nay)