Tài liệu vơ:

Con Gái B́nh Định

Đào Đức Chương

(Thếkỷ 21 No.109, May 1998)

Phụ nữ ở B́nh Định được học vơ đến nơi đến chốn để trở thành bậc cao thủ, đem tài vơ nghệ làm nên lịch sử như nữ tướng Bùi Thị Xuân người đất Tây Sơn cũ, quán làng Xuân Ḥa xă B́nh Phú quận B́nh Khê (nay là huyện Tây Sơn) th́ xưa nay chưa có người thứ hai. Nhưng con gái B́nh Định được cha mẹ cho học vơ pḥng thân, nhất là trước năm 1945, th́ hầu như cô gái nào cũng biết qua hai môn vơ căn bản:

Ai về B́nh Định mà coi,

Con gái B́nh Định múa roi, đi quyền

(Ca dao)

Tuy nhiên, đôi lúc cũng có những cô gái học vơ không chỉ để pḥng thân mà muốn phát huy cái đẹp của vơ truyền thống như trường hợp Thanh Tùng, hoặc c̣n đi xa hơn, thi thố với đời, trở thành cao thủ trong làng vơ. Điển h́nh có bà Mân sống vào thời chúa Nguyễn, cô Quyền vào giữa thế kỷ 19 và sang đầu thế kỷ 20 lại có Tám Cảng.

Bà Mân chưa phải là nhân vật lịch sử nhưng với tài vơ nghệ, bà được dân B́nh Định ca tụng qua bài vè Chú Lía dài 1434 câu thơ lục bát và được lưu truyền khắp các tỉnh miền Nam Trung phần.

Theo bài vè, bà Mân ở gần vùng Truông Mây, nơi sào huyệt của một đảng cướp lớn do cha Hồ chú Nhẫn và sau có thêm chú Lía cầm đầu, nay thuộc xă Ân Đức huyện Hoài Nhơn. Một hôm hai tên Hồ, Nhẫn đem cả lực lượng hùng hậu đến bắt heo nhà bà, cả làng khiếp sợ không ai dám tiếp cứu:

Lân la bốn chục theo rày

Thẳng đường xuống xóm chật đầy đường quan

Trong tay bà chỉ có cây roi ngắn nhưng với ḷng can đảm và tự tin, bà xông ra cự địch với một đảng cướp mạnh khét tiếng trong vùng:

Mụ Mân độ khoảng bốn hai

Làu thông vơ nghệ ít ai sánh b́

Th́nh ĺnh chưa biết việc chi

Tiện tay mụ với tức th́ đoản côn

Bước ra thấy rơ thiệt hơn

Mụ không thèm hỏi huơ côn đánh liền.

Ai cũng tưởng phen này bà Mân bị nát thây v́ hai tên Hồ, Nhẫn không những vơ nghệ phi thường mà c̣n hung bạo chưa từng có. Nhưng không may cho chúng, thế vơ của bà sâu hiểm vô cùng, áp đảo được ngay đối thủ:

Cả ba vùng vẫy đua tranh

Mụ Mân quả thực liệt oanh ai tày

Chỉ mới so tài ở hiệp đầu mà bọn cướp đă bị ngọn roi thần của bà cuốn người như băo táp, chúng phải đổi từ thế công sang thế thủ rồi t́m đường tháo lui:

Phút thôi Hồ, Nhẫn cả hai

Đuối tay kéo chạy như bay khác nào!

Thân đàn bà mà đánh đuổi bọn cướp đông đảo để bảo vệ tài sản là điều hiếm có. Nhưng cũng tại huyện Hoài Nhơn c̣n một cô gái khác, trong tay chỉ có con dao mà hai lần đánh thắng cọp để cứu mẹ, mới là chuyện phi thường.

Trần Thị Quyền, cái tên do cha mẹ đặt gắn liền với vơ nghệ, âu đó là cái nghiệp tiền định làm nên kỳ tích mà chính cô cũng không ngờ được. Nhà nghèo, cha mất sớm, không có anh em, cô là người duy nhứt sớm hôm với người mẹ. Cô có nhan sắc, nhiều người đến xin cưới nhưng nhất mực từ chối để làm tṛn chữ hiếu.

Thường ngày hai mẹ con vào núi chặt củi đem ra chợ bán kiếm tiền nuôi thân. Một hôm cô Quyền đang chặt cây để cho mẹ gom thành bó, bỗng có một con cọp nhảy ra vồ người mẹ, bà phải lăn người mới kịp né tránh. Cô Quyền đang cầm cái rựa, thấy thế vội xông đến cứu mẹ. Nhờ có vơ nghệ và b́nh tĩnh, cô tránh được tầm nanh vuốt của mănh thú và chém trả lại nhiều nhát chính xác, cọp đau quá đành bỏ chạy.

Câu chuyện đánh cọp tưởng đă lăng quên theo năm tháng, không ngờ cọp luôn luôn ŕnh rập quyết báo thù. Một đêm bà mẹ có việc phải ra sân, như có linh tính, cô Quyền cầm dao theo mẹ pḥng thú dữ.

Th́nh ĺnh cọp nhảy bổ ra vồ hai mẹ con, cô vội kéo mẹ dạt sang một bên để tránh rồi dùng dao chống trả. Cọp được lợi thế nhờ đêm tối, c̣n cô Quyền cũng có lợi điểm đánh cọp nơi quang đăng, tiện bề công thủ. Hai bên quần thảo với nhau, cọp vồ hụt nhiều lần đâm ra mệt trở nên hung dữ, liều lĩnh lao tới, cô tràn bộ (1) né tránh. Cọp đang tầm phóng chưa kịp xoay ḿnh lại, nửa phần thân sau của nó là mục tiêu ngon lành cho mũi dao của cô cắm phập vào hông cọp. Tuy bị thương nhưng cọp c̣n thừa sức quay đầu lại chồm lên, chuyển hết thần lực vào hai chân trước để trả đ̣n. Lanh như chớp, cô Quyền hoành bộ (2) rồi phóng mạnh lưỡi dao ngọt xớt vào lồng ngực nở nang của đối thủ, trước khi nhảy trái tránh cú vồ sinh tử. Khi dân làng đèn đuốc kéo đến tiếp cứu, con cọp to lớn chỉ c̣n là một cái xác giăy giụa trên vũng máu.

Nếu bà Mân tên tuổi sống măi trong văn học dân gian, chuyện cô Quyền giết cọp được truyền tụng trong làng vơ của tỉnh nhà th́ trường hợp của bà Tám Cảng là một bài học đáng suy ngẫm.

Ông Hương mục Ngạc, kế tổ của phái quyền An Vinh mà phương ngôn đă có câu truyền tụng "Roi Thuận Truyền, quyền An Vinh" có ba người con: Bảy Lụt là trai trưởng, kế là Tám Cảng và út nam là Chín Giác. Tuy là gái nhưng Tám Cảng có sức mạnh hơn người và ham mê vơ thuật nên được cha cưng chiều truyền dạy chu đáo. Tiếng đồn con gái ông Hương mục Ngạc mới 18 tuổi, trong tay chỉ có cây đ̣n gánh mà đánh bạt cả hàng trăm thanh niên cầm gậy bủa vây tại sân chùa Bà An Thái trong ngày lễ hội Đổ Giàn càng làm thiên hạ phục sát đất ḷ vơ của ông Hương mục Ngạc nhưng đồng thời càng không ai dám tính chuyện trăm năm với cô. Năm Tám Cảng 20 tuổi vẫn chưa được nơi nào dạm hỏi dù rất có nhan sắc. Ông Hương mục Ngạc thông cảm nỗi khổ tâm của con, tuyên bố với mọi người rằng nếu ai đánh bại được Tám Cảng th́ ông sẽ gả con gái cho mà không đ̣i hỏi một lễ vật ǵ. Có ba người đến xin đấu vơ với Tám Cảng. Người thứ nhất bị Tám Cảng cho một cú đá văng vào hàng rào. Người thứ hai, vơ nghệ khá hơn, kịt ngựa (3) nhanh nhẹn, công thủ song hành nên cầm cự được hiệp đầu, sang đến hiệp thứ hai th́ bị Tám Cảng dùng ngón gia truyền ép vào bể cạn, đánh gục. Người thứ ba là Dư Hựu (không phải tên Hựu, quân sư trong đảng cướp của Dư Đành) bị Tám Cảng đạp nhào vào hồ cá, đành bỏ ra về tầm sư học đạo. Một năm sau lại đến xin đấu, lần này Tám Cảng tung cước bị Dư Hựu tóm được chân, ném trả vào hồ cá.

Dư Hựu thắng. Giữ lời hứa, ông Hương mục Ngạc làm lễ vui qui cho con gái. Năm ấy Tám Cảng 22 tuổi. Nhưng cũng chỉ sống chung với nhau được ba năm. Một hôm vợ chồng lời qua tiếng lại, Tám Cảng quen thói bướng bỉnh, trả lời khinh khỉnh làm Dư Hựu điên tiết. Anh thuận tay chụp cái b́nh hoa chưng trên sập gụ ném mạnh vào mặt vợ. Nếu là người khác th́ đă nát mặt, nhưng Tám Cảng nhẹ nhàng đưa tay bắt lấy đem đặt trên bàn và mỉa mai: "B́nh xưa mà làm ngơ không bắt, để bể cũng uổng." Dư Hựu càng giận, với lấy cái chày đâm tiêu bằng đá ném mạnh vào đầu vợ. Tám Cảng cũng đưa tay chụp cười gằn giọng châm chọc: "Cái đầu mà quáng mắt lầm cái cối đâm tiêu hả?" Dư Hựu giận lắm, mất hết trí khôn, chụp con dao phay, bằng thế vơ rất lợi hại, phóng thẳng vào ngực vợ. Đường dao quá mạnh, Tám Cảng không thể chụp được, đành phải té ngửa để tránh. Con dao ngon trớn cắm phập vào vách đất ngập đến cán. Dư Hựu sực tỉnh th́ mọi việc đă xảy ra rồi, suưt nữa gây nên án mạng. Tám Cảng lồm cồm ngồi dậy, c̣n Dư Hựu bỏ chạy một mạch đến nhà cha vợ. Gặp ông Hương mục Ngạc, anh ta sụp lạy kể lại đầu đuôi câu chuyện và nhất quyết xin trả Tám Cảng mà không đ̣i hỏi một điều kiện nào.

Chuyện Dư Hựu trả vợ nhanh chóng lan truyền khắp vùng. Nhân đó câu ca dao trên được sửa lại:

Ai về B́nh Định mà coi

Con gái B́nh Định cầm roi rượt chồng

Các bậc phụ huynh ở B́nh Định rút kinh nghiệm, thôi không dám chiều ư con gái cho học nhiều vơ nghệ nữa, sợ bị ế chồng như Tám Cảng. Họ chỉ luyện con gái vài thế vơ thủ thân, thế cũng đủ cho

đối phương kinh hồn rồi. Sau đây là một trong hàng trăm chuyện về phản ứng tự vệ của các cô gái B́nh Định.

Ai đến Tuy Phước cũng biết câu ca dao về các phiên chợ trong quận: "Chợ Huyện liệng Cây Gia, Cây Gia xa chợ Mới, chợ Mới tới chợ Dinh, chợ Dinh rinh Bồ Đề, Bồ Đề kề chợ Huyện." Phiên Huyện nhằm các ngày 1, 6, 11, 16, 21, 26 âm lịch, là phiên chợ lớn nhất của huyện nhà nhưng lại cách thị trấn Tuy Phước hơn ba cây số.

Ngày phiên, không những dân trong vùng tập trung về mà c̣n đủ mặt dân buôn từ xa đến mua gom sản phẩm địa phương và bán hàng hóa ở nơi khác mang tới. Con đường quốc lộ 1 từ huyện lỵ đến chợ Huyện người mua kẻ bán đi lại tấp nập có cả những chàng trai đi dạo chợ để t́m ư trung nhân:

Trai khôn t́m vợ chợ đông

Gái khôn t́m chồng giữa chốn ba quân.

(Ca dao)

Tuy nhiên cũng có kẻ lợi dụng đám đông để giở tṛ xằng bậy. Từ sáng, tại cổng Lư Môn có hai thanh niên ăn mặc chải chuốt, cười nói rổn rảng, chốc chốc lại trông ra đường. Nh́n dáng điệu biết ngay là dân ăn chơi từ tỉnh thành lạc đến. Trong ḍng người từ chợ về, có một thanh nữ cao lớn, bước đi chậm chạp, hai tay xách hai giỏ nặng đầy ắp thức ăn. Đợi cho cô gái rẽ vào con đường đất dẫn vào cổng làng, hai "công tử" bước tới đón đàng, buông lời chọc ghẹo và giở tṛ sàm sỡ. Nhanh như chớp, cô gái buông hai giỏ thức ăn, xoay nghiêng né tránh tầm tay của kẻ vô hạnh đang sấn tới ngực, rồi đưa tay đánh phất qua một chiêu. Bị phản ứng bất ngờ, một trong hai tên né sang bên nhưng hắn đă lầm v́ đó là hư chiêu. Cô gái thấy hắn trúng kế, thuận chân tung cước trúng thẳng vào hông làm hắn lăn xống ruộng, bùn bê bết từ đầu đến chân. Tên thứ hai mất tinh thần nhưng trước đám đông hắn tự ái liều mạng xông tới. Cô gái trong tư thế đứng ngựa (4), đón hắn bằng ngón vơ gia truyền, chiếc khăn quàng cho ấm cổ trở thành roi nhuyễn tiên quất mạnh vào mặt đối thủ làm hắn không kịp tránh cú đá song phi, lảo đảo cắm đầu xuống ruộng.

Thanh nữ ấy là con gái út nhà họ Đào, quan Trung nghị Đại phu Quang lộc Tự khanh người làng Vinh Thạnh, nay bà đă giữa tuổi thất tuần thường kể lại câu chuyện năm xưa lúc bà chưa lập gia đ́nh. Và ngón vơ pḥng thân ấy do ông cậu Năm Hương ở thôn Dương An nay thuộc xă Phước An huyện Tuy Phước truyền dạy cho bà lúc tuổi trăng tṛn.

Vào đầu thập niên một chín bảy mươi, một ngôi sao lóe sáng trên ṿm trời Vơ học B́nh Định: nữ vơ sĩ Thanh Tùng của miền sông Côn. Cô được phong vơ sĩ và được làng báo Sài G̣n tặng biệt danh "Hổ Cái Miền Trung" không phải v́ cô đă thắng trên vơ đài hoặc đă từng tranh tài cao thấp với ai; người ta chỉ thấy Thanh Tùng ở điện thờ Quang Trung trong ngày hội Đống Đa biểu diễn các bài quyền như Lăo Mai Độc Thọ hay bài roi như Tấn Nhất Ô Du với thế thủ như cản gió che mưa và thế công dồn dập như băo táp là đă đủ khiếp.

Xét cho cùng, điều ấy là lẽ dĩ nhiên. Thanh Tùng là con nhà vơ, đời đời nối nghiệp và thừa hưởng các ngón bí truyền của một ḍng họ cao thủ. Ông nội của Thanh Tùng là một tay roi quỉ khiếp thần kinh, người đồng thời và xứng tài với Hồ Ngạnh (1891 - 1976, kế tổ của phái roi Thuận Truyền). Thân sinh cô vẫn nối nghiệp nhà, giữ vai tṛ đứng đầu hàng vơ tại địa phương. Rồi đến Thanh Tùng, tuy là gái, cô vẫn tiếp nối thừa hưởng tinh hoa của con nhà vơ. Nhưng với bản chất kín đáo và nhũn nhặn, Thanh Tùng ngoan hiền về nhà chồng như bao cô gái B́nh Định khác, ngày ngày chăm chỉ bên chiếc máy may, nhỏ nhẹ với khách hàng. Trông dáng dấp liễu yếu đào tơ, không ai thấy ở Thanh Tùng một dấu vết ǵ về vơ nghệ, một thời nổi tiếng biểu diễn quyền roi. Chớ lầm! Khi cần tự vệ, "con người vơ" của Thanh Tùng nổi dậy. Đôi mắt hiền lành sẽ rực sáng như gươm bén và đôi tay mềm mại sẽ biến thành thanh sắt.

Nhưng trên hết, người đàn bà B́nh Định đáng nói hơn cả là nữ tướng Bùi Thị Xuân. Vơ nghệ của bà vào bậc siêu phàm, ngang tài với các danh tướng mày râu của Tây Sơn như Nguyễn Huệ sở trường về roi, Nguyễn Lữ sáng chế và xuất sắc môn Hùng kê quyền, Vơ Văn Dũng giỏi về đao, Đặng Văn Long quán thông cả cương quyền và miên quyền, c̣n Bùi Thị Xuân không ai sánh kịp về độc kiếm và song kiếm. Tài thao lược, bà xứng là đấng nữ kiệt. Gương dũng cảm, bà đáng bậc anh thư làm cho Nguyễn Ánh khiếp sợ và căm tức. C̣n đức độ của bà, không những trong hàng ngũ Tây Sơn mến phục mà ngay cả kẻ thù cũng thầm kính nể.

Bà Bùi Thị Xuân có họ hàng với vua Quang Toản, nhưng về thứ bậc gia tộc lại có nhiều sách chép khác nhau: Theo tài liệu của Vương Bích Thu, viết trong giai phẩm Tây Sơn Xuân Quí Dậu (1993), trang 148, Bùi Thị Xuân là chị ruột của quan Thái sư Bùi Đắc Tuyên và là con của Bùi Đắc Kế. C̣n bà chánh cung Hoàng Hậu họ Phạm sinh ra Nguyễn Quang Toản theo Việt sử Tân biên của Phạm Văn Sơn, quyển 4, trang 204, bà này là con của Bùi Đắc Tuyên, không rơ là em cùng mẹ khác cha hay anh em thúc bá bên ngoại? Nếu vậy vua Nguyễn Quang Toản gọi Bùi Đắc Tuyên bằng cậu và Bùi Thị Xuân bằng d́. Nhưng theo sách "Những v́ sao đất nước" (truyện danh nhân lịch sử của nhiều tác giả) tập 5, trang 204, Quỳnh Cư chép "Bùi Đắc Tuyên là anh cùng cha khác mẹ với vua Cảnh Thịnh (?), là cậu Bùi Thị Xuân."

Nữ kiệt Bùi Thị Xuân có bốn lần đối đầu với Nguyễn Ánh sau là vua Gia Long. Lần thứ nhất vào mùa hạ năm 1797, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, bản dịch, tập 2, trang 261 có chép, tóm lược như sau:

Nguyễn Ánh đem binh thuyền đánh Thị Nại, rồi đích thân đem hơn 100 chiếc thuyền ra đánh cửa Đà Nẵng nhưng v́ Trương Phúc Luật không tiếp tế thuyền lương thực kịp thời v́ bị gió ngược, trong quân chỉ c̣n năm ngày lương nên vua tạm đem quân về Gia Định và cố nhiên không thể lấy mạnh yếu mà luận. Đó là lời biện bạch của sứ thần nhà Nguyễn, nhưng theo Quỳnh Cư th́ ban đầu Nguyễn Ánh định đem quân đánh Thị Nại, nhân lúc triều đ́nh Phú Xuân chia rẽ nội bộ (phe Bùi Đắc Tuyên bị phe Vơ Văn Dũng sát hại) nắm bắt thời cơ, đích thân ông đem binh thuyền ra đánh Đà Nẵng, nơi Bùi Thị Xuân đang trấn nhậm, với ư định phá tan căn cứ quan trọng nằm sát nách kinh đô Phú Xuân. Nhưng đội thám mă Tây Sơn từ Bản Tân (5) đă kịp thời báo về Tổng hành dinh của bà về cuộc hành quân bất thần của Nguyễn Ánh. Nhân có chiếu chỉ của vua Cảnh Thịnh hối thúc bà hồi triều để dàn xếp nội bộ, tương kế tựu kế, Bùi Thị Xuân phao tin ba ngày nữa sẽ kéo đại binh về Phú Xuân, cốt làm kiêu ḷng giặc. Quân Nguyễn hăm hở tiến tới thành Quảng Nam nhưng đă bị 5000 quân của Bùi Thị Xuân phục đánh đúng chỗ. Trận ấy, may cho Nguyễn Ánh đi đoạn hậu nên thoát chết. Thua cả tài lẫn trí đàn bà, Nguyễn Ánh vừa thẹn vừa tức, thu tàn quân về Gia Định, giấu nhẹm việc bại trận, nại cớ hết lương phải rút quân.

Lần thứ hai Nguyễn Ánh đụng độ với Bùi Thị Xuân tại mặt trận Trấn Ninh (6). Theo hai bộ chính sử của Trần Trọng Kim và Phạm Văn Sơn, quân Tây Sơn cả thủy bộ gồm ba vạn, chia làm ba đạo tấn công.

Tháng 12 năm Tân Dậu (tháng 1-1802) quân Tây Sơn vượt sông Linh Giang (sông Gianh), lực lượng tiền phương quân Nguyễn đang đóng ở đây do các Tướng Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương và Đặng Trần Thường chỉ huy, phải lui binh về Đồng Hới. Được tin cấp báo, Nguyễn Ánh thân chinh đem cả đại binh ra tiếp ứng, sai Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thường giữ mặt bộ, giao Nguyễn Văn Trương giữ mặt biển.

Ngày mùng Một tết Nhâm Tuất (3-2-1802) Nguyễn Quang Thùy tiến đánh lũy Trấn Ninh bị hỏa lực của quân Nguyễn cầm chân lại. Bùi Thị Xuân lănh chức Đại tướng đem 5000 quân bản bộ tấn công lũy Đồng Hới, địch quân bắn ra như cát văi nhưng cờ lệnh của bà vẫn chúc hẳn xuống, dấu hiệu quyết chiến không lùi. Đang chiến đấu anh dũng, vua Cảnh Thịnh ra lệnh lui binh, bà không chịu, vua phải nghe theo. Suốt ngày hôm ấy bà ngồi trên bành voi xông xáo trận tiền đôn đốc binh sĩ; tuy thế trận chưa nghiêng hẳn bên nào nhưng Nguyễn Ánh đă núng thế, định tháo lui.

Bỗng nghe tin thủy quân Tây Sơn ở cửa Nhật Lệ bị Nguyễn Văn Trương phá tan lại thêm tướng Nguyễn Văn Kiên ra hàng địch làm cho vua Cảnh Thịnh và các tướng tá nản ḷng. Trước t́nh thế ấy bà vẫn quyết chiến, sai một đội quân đến điền khuyết bọn làm phản rồi giành lấy dùi trống thúc quân liên hồi. Được lệnh xung phong quân của bà ào ạt trèo tường chiếm thành. Thế trận này nếu kéo dài thêm hai tiếng đồng hồ nữa, bà hạ được thành Trấn Ninh rồi, Nguyễn Ánh và tướng tá hoảng hốt liền sai thủy quân liều chết vượt sông đánh bọc hậu để chia lực lượng, ḥng giảm bớt mũi nhọn tấn công của Tây Sơn, ngơ hầu mở đường máu thoát thân. Nhưng Nguyễn Quang Thùy nhát gan, thấy thủy quân của Nguyễn Ánh ở mặt sau đánh tới, sợ bị vây, vội rút quân. Một lúc sau Bùi Thị Xuân mới biết trên mặt trận chỉ c̣n quân dưới quyền bà đang đơn độc chiến đấu, các cánh quân khác đă hỗn loạn tháo chạy. Bà vẫn b́nh tĩnh giữ vững hàng ngũ, bảo vệ vua Cảnh Thịnh rút lui an toàn.

Lần thứ ba, Nguyễn Ánh đối diện với Bùi Thị Xuân khi bà cùng gia đ́nh bị quân Nguyễn bắt ở huyện Thanh Chương, Nghệ An và giải về Phú Xuân. Sự kiện này có nhiều sách kể lại nhưng chi tiết lại khác nhau đôi chút. Nếu theo hai tài liệu của Vương Bích Thu và Quách Giao viết trong Giai phẩm Tây Sơn Xuân Quí Dậu (1993) và Xuân Ất Hợi (1995) th́ lời đối đáp giữa Nguyễn Ánh và Bùi Thị Xuân như sau:

Khi quân hầu dẫn Bùi Thị Xuân vào, Nguyễn Ánh với giọng tự đắc hỏi:

"Ta và Nguyễn Huệ, ai hơn?"

Bùi Thị Xuân ung dung đáp:

"Nói về tài ba, tiên đế ta bách chiến bách thắng, hai bàn tay trắng dựng nên cơ đồ. C̣n nhà ngươi bị đánh phải trốn chui trốn nhủi, phải cầu viện ngoại bang, hết Xiêm đến Pháp. Chỗ hơn kém như ao trời nước vũng. C̣n về đức độ, tiên đế ta lấy nhân nghĩa mà đối xử với kẻ trung thần thất thế như đă đối với Nguyễn Huỳnh Đức, tôi nhà ngươi. C̣n nhà ngươi lại dùng tâm của kẻ tiểu nhân mà đối với những bậc nghĩa liệt đă hết ḷng v́ chúa, chẳng nghĩ rằng ai có chúa nấy, ái tích kẻ tôi trung của người khác, tức là khuyến khích tôi ḿnh trung với ḿnh. Chỗ hơn kém cũng rơ ràng ban ngày và đêm tối. Nếu tiên đế ta đừng thừa vong sớm, dễ ǵ nhà ngươi trở lại đất nước này."

Nguyễn Ánh cười gằn:

"Nhà ngươi có tài sao không giữ ngai vàng cho Cảnh Thịnh?"

Bùi Thị Xuân đáp:

"Nếu có thêm một nhi nữ như ta th́ cửa Nhật Lệ không dễ ǵ mà lạnh. Cửa Nhật Lệ không dễ lạnh th́ nhà ngươi cũng khó đặt chân lên đất Bắc Hà."

Nguyễn Ánh nén giận hỏi với giọng mỉa mai:

"Ngươi có muốn ta ân xá không?"

Bùi Thị Xuân đáp:

"Ta đâu có sợ chết mà phải chịu nhục, hạ ḿnh trước một kẻ tiểu nhân đắc thế!"

Nguyễn Ánh căm gan, dằn từng tiếng:

"Không chịu nhục. Ta sẽ làm cho ngươi biết nhục..."

Lần thứ tư, vua Gia Long lại đối đầu với bà Bùi Thị Xuân tại pháp trường.

Trước đó, Nguyễn Ánh gặp Bùi Thị Xuân ba lần đều lănh ba vố thua đau. Lần một, đấu trí thua tài, lần hai đấu lực thua dũng, lần ba đấu khẩu thua lư. V́ thế, sau Quang Toản, Bùi Thị Xuân là kẻ thù số một của Gia Long, nhà vua dành cho gia đ́nh bà cực h́nh thảm khốc nhất và đích thân chứng kiến cuộc hành quyết này. Gia Long hả hê nghĩ rằng phen này bà phải chịu đau đớn tột cùng về thể xác lẫn tinh thần, dù có gan đồng da sắt cũng không thể cầm được nước mắt. Thế nhưng Gia Long lại một lần nữa thua cuộc.

Theo tài liệu của Giáo sĩ De la Bissachère viết năm 1807 (7) do một người thân tín đă chứng kiến rồi tường thuật lại, tại pháp trường hôm ấy, dân chúng khắp kinh thành Phú Xuân được huy động đến xem đông nghẹt. Trên khán đài các quan và khách ngoại quốc đă tề tựu đông đủ, khi kiệu nhà vua đến nhiều phát đại bác nổ vang làm tăng thêm uy nghi của ngày lễ hiến phù. Kế bên khán đài là cḥi phát thanh cao lêu nghêu vang lên bài chiếu của Gia Long, nghe câu được câu không:

"V́ chín đời mà trả thù... Chợt nửa chừng gặp lúc gian truân, để ngoan dân gây nên biến loạn... Chống giặc bắt xong tội nhân được hết... Yết tế thái miếu, làm lễ hiến phù... Phanh xác tán xương, trả thù miếu xă, rửa hận thần dân..." (8)

Tiếng loa vừa dứt, một hồi thanh la vang lên báo hiệu giờ phút thi hành án bắt đầu. Hàng vạn người như nín thở, mắt đăm đăm nh́n mẹ con bà Bùi Thị Xuân, không khí nghiêm trọng bao trùm cả pháp trường. Từ xa, một thớt voi to lớn, đen đủi, lù lù tiến tới tử tù theo lệnh của quản tượng. Cô con gái của bà mới 18 tuổi xuân, bị lột hết quần áo đang co ro trong thân thể tiều tụy, bỗng nàng hét lên thất thanh rồi toàn thân biến sắc trắng bệch như một bóng ma, quay lại cầu cứu mẹ.

Bà Bùi Thị Xuân nén xúc động, nghiêm nét mặt nói với con lần cuối: "Con gái của mẹ, con không được làm thế, phải chết anh dũng để xứng đáng là con nhà tướng Tây Sơn. Mẹ đây c̣n làm thế nào cứu con được!"

Con voi hung hăn dùng ṿi quấn chặt cô gái, đu đưa lấy trớn tung mạnh nạn nhân lên cao rồi nhảy bổ lên dùng ngà hứng lấy và lại tung lên lần nữa, cao hơn lần trước. Lần này cô gái rơi xuống đất chỉ c̣n là một cái xác mềm nhũn bê bết máu. Bây giờ voi dùng chân trước chà đạp lên xác nạn nhân cho đến khi nát bấy thành đống bùn màu đỏ.

Đến lượt Bùi Thị Xuân, bọn đao phủ mới phát hiện trong lớp áo quần bà đă quấn chặt thân thể bằng lụa để tránh sự lơa lồ khi bị voi giày. Chúng định tháo gỡ nhưng không kịp nữa rồi v́ con voi đang hăng máu xồng xộc chạy tới toan làm phận sự như lần trước. Bà vẫn đứng b́nh thản, nét mặt không hề biến sắc, đợi voi đến gần bỗng thét lên một tiếng thật lớn, nhái theo khẩu lệnh dùng để nạt những con voi bướng bỉnh. Voi giật ḿnh lùi bước rồi cong ṿi quay đầu lại.

Một sự kiện bất ngờ! Dân chúng lại càng thán phục người nữ tướng Tây Sơn trước cái chết vẫn c̣n biết tiên liệu và vẫn c̣n oai quyền khiến voi dữ cũng phải khiếp sợ. Gia Long ngự trên khán đài đang hí hửng bỗng sầm mặt lại khiến viên Đề Đốc chỉ huy cuộc hành h́nh tái mặt, run lập cập, truyền loa giục đao phủ thi hành án lệnh gấp. Viên quản tượng hốt hoảng dùng cây sào nhọn đâm vào miệng voi và quát to bảo bà phải qú xuống cho voi khỏi sợ. C̣n bọn giáp sĩ cũng vội vàng bắn hỏa pháo vào đít voi, buộc nó phải tiến tới phía tội nhân. Con voi bị kích thích cùng cực trở nên hung tợn và như điên dại, chạy bổ tới vội vă quấn lấy bà, tung lên cao rồi cong đuôi chạy quanh pháp trường, rống lên những tiếng đầy sợ hăi, làm hàng vạn người hoảng hốt theo.

Về cái chết của bà, giáo sĩ Bissachère c̣n cho biết trong đám vua quan Tây Sơn bị Gia Long hành h́nh tại Phú Xuân chỉ có ba người gồm em vua Quang Toản (9), quan Thiếu Phó Trần Quang Diệu và vợ là nữ Đại tướng Bùi Thị Xuân là vẫn b́nh thản, mặt không biến sắc trong lúc bị hành h́nh.

Ông Nguyễn Huyền Anh, trong Việt Nam Danh Nhân từ điển, đă nhận xét về bà: "Có tài binh bị, bà thường ṭng chinh chống địch, lập được nhiều chiến công. Là một nữ tướng rất dũng cảm và có độ lượng, bà không bao giờ giết những quân đă chạy hay đầu hàng."

Trong Từ điển Nhân vật Lịch sử Việt Nam có bài thơ vịnh bà:

Vận nước đang xoay chuyển

Quần thoa cũng vẫy vùng

Liều thân lo cứu chúa

Công trận quyết thay chồng

Khảng khái khi lâm nạn

Kiên trinh lúc khốn cùng

Ngàn thu gương nữ kiệt

Gương sáng hăy soi chung

Ông Nguyễn Bá Huân (1848-1899), một danh sĩ B́nh Định có chân trong phong trào Cần Vương của tỉnh nhà, chuyên nghiên cứu sử Tây Sơn để viết liệt truyện qua các tác phẩm như Tây Sơn tiếm long lực, Cân quắc anh hùng truyện, Tây Sơn danh tướng chinh nam truyện... Ông c̣n để lại bài thơ vịnh Bùi Thị Xuân (Vịnh phu nhân Bùi Thị Xuân)

Cân quắc do tư báo quốc cừu

Khả liên di hận phó đông lưu

Dạ lan mỗi độc Tây Sơn sử

Phảng phất phương dung hiện án đầu

Việt Thao dịch:

Phận gái lo tṛn chuyện nước non

Thương thay mối hận chảy về đông

Đêm khuya lần đọc Tây Sơn sử

Phảng phất dung nhan trước án c̣n

Và trên vùng đất quê hương của bà, miền sông Côn, người đời sauc ó bài thơ hết lời ca tụng, rất phổ biến:

Xưa nay khăn yếm vượt mày râu,

Bùi Thị phu nhân đứng bậc đầu.

Chém tướng, chặt cờ, khoe kiếm sắc,

Vào thần, ra quỷ, tỏ mưu sâu.

Quên nhà, nợ nước, đem toan trước,

V́ nước, thù nhà, để tính sau.

Tài đức ngh́n thu c̣n nức tiếng,

Non c̣n chảy ngọc biết v́ đâu?

Với tài đức và gương dũng cảm ấy, anh thư Bùi Thị Xuân đáng đứng riêng một danh sách và vượt hẳn các nhân vật nữ ở B́nh Định đă nêu trên.

Chú thích:

1. Tràn bộ: xê dịch nhanh sang bên trái hay bên phải để tránh đ̣n của đối thủ.

2. Hoành bộ: quay ngược trở lại để tấn công vào chỗ sơ hở của đối thủ.

3. Kịt ngựa: thế vơ tiến thẳng tới hoặc tiến sang bên phải, bên trái của đối thủ mà bàn chân không rời mặt đất.

4. Đứng ngựa: thế đứng mà bắp đùi song song với mặt đất để bảo vệ phần hạ bộ.

5. Bản Tân: tức Bến Ván, tên của bến sông Trầu ở làng An Tân phía namcửa Đại, thuộc tỉnh Quảng Nam.

6. Trấn Ninh: thuộc xă Trấn Ninh, sau đổi là Phù Ninh, huyện Phong Lộc phủ Quảng Trạch tỉnh Quảng B́nh.

7. Theo Thiên Nam nhân vật chí bà Bùi Thị Xuân bị xử lăng tŕ. Các sách sau này viết về cái chết của bà đều dựa vào một trong hai thuyết ấy.

8. Theo tài liệu của Quỳnh Cư trong Những v́ sao đất nước, tập 5, trang 228.

9. Vua Nguyễn Quang Toản có bốn người em: Quang Thùy tự tử ở ngoài Bắc, c̣n Quang Bàn, Quang Duy và Quang Thiệu cùng bị bắt với vua anh và bị đóng cũi giải về Phú Xuân chịu cảnh gia h́nh.

Những cuộc đại chiến ở Quy Nhơn giữa nhà Tây Sơn và Nguyễn Ánh

Trận thủy chiến Rạch Gầm-Xoài Mút giữa quân Tây Sơn và quân của Nguyễn Ánh

Sau khi lấy thành Quy Nhơn, Tây Sơn Vương đánh mạnh về phương nam và tiến lên phía bắc dẹp yên các tập đoàn phong kiến thối nát đương thời, đánh tan nhiều vạn quân xâm lược Xiêm phía nam, quân nhà Thanh phía bắc; Nguyễn Nhạc đóng đô ở thành Quy Nhơn (thành Hoàng Đế), xưng hiệu vua Thái Đức, Nguyễn Huệ - vua Quang Trung ở Phú Xuân (Thừa Thiên-Huế), c̣n Nguyễn Lữ giữ đất Gia Định. Đất nước tạm yên nạn xâu xé tranh giành quyền lợi giữa các tập đoàn phong kiến, nạn quan lại hà hiếp nhân dân. Nhà Nguyễn - Tây Sơn lo việc nội trị, ngoại giao, b́nh yên xă tắc. Song, sự yên ổn này không lâu khi nội bộ nhà Tây Sơn lục đục, đặc biệt từ khi vua Quang Trung băng hà (ngày 29-7 năm Nhâm Tư-1792), Nguyễn Quang Toản nối ngôi mới 15 tuổi hiệu Cảnh Thịnh, vua Thái Đức ở Quy Nhơn tuổi về già trở nên an phận; Nguyễn Lữ ở Gia Định không đủ sức giữ đất. Lại thêm một số nịnh thần tranh quyền lợi cá nhân, hăm hại người tài đức, khiến cho nhà Tây Sơn không c̣n thống nhất, đoàn kết như lúc khởi nghĩa. C̣n Nguyễn Ánh, tức Nguyễn Phúc Ánh, mặc dù bị nhà Tây Sơn dồn đến đường cùng nhưng chưa mất hẳn, Phúc Ánh liên hệ cầu viện với Pháp, được Pháp trợ giúp dần dần khôi phục thế lực và đánh lại Tây Sơn. Khi nghe tin Quang Trung mất, Nguyễn Phúc Ánh cả mừng.

Năm 1788, Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm được Sài Côn (Sài G̣n) và được Pháp giúp đỡ tàu đồng đă đánh ra các tỉnh Nam Trung Bộ và năm 1792 đem chiến thuyền đánh Quy Nhơn, mở đầu cho các trận đánh lớn giữa hai nhà Nguyễn trên đất Quy Nhơn - nơi Tây Sơn chiếm thành đầu tiên của nhà Nguyễn.

Quân nhà Nguyễn kéo vào cửa biển Thị Nại (cửa biển Quy Nhơn). Đây là cửa biển có nhiều lợi thế pḥng thủ quân sự, phía đông có dăy núi Phương Mai, phía tây có núi Nhạn Châu (Gành Ráng) làm cánh che. Từ thời Chiêm Thành đến Tây Sơn, cửa Thị Nại luôn có đồn quân pḥng ngự. Vua Thái Đức cho xây pháo đài ở hai dăy núi, đặt đại bác để bắn xuống khi bị tấn công. Quân nhà Nguyễn dùng hỏa công đánh bất ngờ, đốt phá thủy trại Tây Sơn làm cho quân Tây Sơn không chống cự nổi phải bỏ cửa Thị Nại chạy vào Quy Nhơn. Quân Nguyễn đổ bộ, nhưng liền bị quân Tây Sơn vây đánh mạnh phải rút lui. Sau đó không lâu, khi chiếm được thành Diên Khánh, thừa thắng Nguyễn Phúc Ánh tiến ra Phú Yên và đem đại binh kéo vào cửa Thị Nại, đánh lên thành Quy Nhơn. Liệu thế chống cự không nổi, vua Thái Đức sai sứ ra Phú Xuân cầu viện. Vua Cảnh Thịnh sai Thái Úy Phạm Công Hưng cùng Nguyễn Văn Huấn, Lê Trung và Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh, 80 thớt voi đi đường bộ; Đặng Văn Chân đem 30 chiến thuyền đi đường biển, cả hai đạo quân vào ứng cứu Quy Nhơn. Quân Nguyễn thấy viện binh Tây Sơn hùng hậu không thể chống cự nổi, liền rút đại binh về Diên Khánh.

Tháng ba năm Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Phúc Ánh lại cử đại binh ra đánh Quy Nhơn. Sau khi vào cửa Thị Nại quân Nguyễn do Vơ Tánh và Nguyễn Huỳnh Đức chỉ huy kéo lên đóng ở núi Hàm Long (Tuy Phước), một cánh do Tống Viết Phước chỉ huy kéo ra đóng ở núi Cung Quăng thuộc Bồng Sơn. Đây là hai vị trí quan trọng có thể bao vây thành Quy Nhơn. Lúc này tướng của Tây Sơn là Vơ Đ́nh Tú đang ở Phú Yên nghe tin quân nhà Nguyễn đổ bộ Quy Nhơn vội kéo quân về đi thẳng lên Cầu Úc đánh quân Vơ Tánh. Hai bên kịch chiến suốt hai ngày đêm, Vơ Tánh trá bại rút quân chạy, Tú đuổi theo nhưng không ngờ trên núi có phục binh, tên bắn xuống như mưa quân của Vơ Đ́nh Tú lớp chết, lớp bỏ chạy. Tú tả xung hữu đột, cây thiết côn gạt phăng bao nhiêu mũi tên bắn vun vút vào người, nhưng cuối cùng không tránh khỏi đạn đồng, Tú bị thương nặng, máu chảy dầm ḿnh đuối sức ngă gục trên lưng ngựa. Con ngựa hí một tiếng dài nhảy ra khỏi trận chiến chạy một mạch về Phú Phong. Khi đến nhà con ngựa lăn ra chết và Vơ Đ́nh Tú cũng tắt thở. Trong lúc này ở Hàm Long, quân của Vơ Tánh và Nguyễn Huỳnh Đức cũng kéo đánh đồn Trấp Xá ở Quán Chẹt. Tướng giữ đồn là Trương Tấn Túy chống cự không nổi, bỏ đồn chạy về Quy Nhơn. Quân Nguyễn tiến đánh tiếp đồn tháp Tri Thiện (tháp Bánh Ít), tướng giữ đồn là Lê Văn Thiệt bị trúng đạn chết. Quân Vơ Tánh thừa thắng kéo ra Ngạc Đầm (Bàu Sấu) ở huyện An Nhơn. Bàu Sấu không rộng lắm nhưng khá sâu, bên mé bàu phía đông có dăy núi đất chạy dài ra phía bắc, trên núi có các đồn lính Tây Sơn đóng để giữ mặt sau thành Quy Nhơn. Các đồn này được xây dựng kiên cố, nên quân của Vơ Tánh tấn công mấy ngày liền mà không vượt qua được. C̣n Nguyễn Phúc Ánh cũng chưa hạ được thành Quy Nhơn, đành bao vây thành truyền các tướng đề pḥng quân Tây Sơn từ Phú Xuân kéo vào chi viện. Quả thực như tiên đoán của Nguyễn Phúc Ánh, nhưng cánh quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu và Vơ Văn Dũng chỉ huy kéo vào tới Quảng Ngăi th́ bị quân Nguyễn chặn đánh không thể nào tiến kịp vào Quy Nhơn. Tướng giữ thành Quy Nhơn là Lê Văn Thanh đợi măi không thấy viện binh mà trong thành lương thực đă cạn đành phải mở cửa thành đầu hàng. Quân nhà Nguyễn vào thành giết hết các tướng tá Tây Sơn. Lúc mất thành Quy Nhơn, tướng của Tây Sơn Nguyễn Quang Huy đang ở Phú Yên nhận định: nếu quân Nguyễn từ Diên Khánh đánh ra, Quy Nhơn đánh vào th́ Phú Yên không chịu nổi. V́ vậy, Huy gấp rút bỏ Phú Yên và kéo binh ra ứng cứu Quy Nhơn. Quân của Huy vượt qua nhiều cánh quân nhà Nguyễn kéo thẳng đến chân thành Quy Nhơn. Nguyễn Phúc Ánh lấy làm lạ v́ một tướng của Tây Sơn chỉ trong một ngày đánh bại hàng chục tướng của ḿnh bèn lên thành quan sát, không ngờ Quang Huy trông thấy dùng cung lớn bắn trọng thương. Tuy vậy, quân của Huy bị quân Nguyễn vây đánh tứ phương, Huy không cự nổi bèn chạy thẳng vào núi Dương An, chiêu mộ thêm hào kiệt chờ dịp phục thù. Sau khi chiếm thành Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh giao thành lại cho Vơ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn giữ, c̣n ḿnh kéo quân vào Gia Định.

Tin Quy Nhơn thất thủ, tháng giêng năm Canh Thân (1800) vua Cảnh Thịnh sai Trần Quang Diệu vào Quảng Nam hợp cùng Vơ Văn Dũng để vào Quy Nhơn. Qua nhiều trận kịch chiến với quân nhà Nguyễn, cuối cùng Trần Quang Diệu cũng vào tới thành Quy Nhơn. Vơ Tánh đem quân ra đánh, nhưng không lại, Tánh kéo quân vào thành cố thủ. Trần Quang Diệu cho quân vây thành và công kích, một mặt phân công cho Vơ Văn Dũng cầm thủy binh giữ cửa biển Thị Nại. Mặc dù quân Nguyễn ở trên thành Quy Nhơn dùng tên, đạn bắn xuống, quân Tây Sơn không đến gần được chân thành, nhưng Trần Quang Diệu cho đắp tường lũy xung quanh thành vây khốn. C̣n Vơ Văn Dũng tổ chức thủy quân và canh pḥng cửa Thị Nại, bố trí đại bác ở hai pháo đài Gành Ráng và Phương Mai. Nguyễn Phúc Ánh nghe tin Quy Nhơn bị vây khốn, cử đại binh ra cứu viện. Nguyễn Phúc Ánh trực tiếp chỉ huy thủy binh, đưa chiến thuyền đến đóng ở Cù Lao Xanh (ngoài cửa biển Thị Nại), c̣n bộ binh do các tướng Nguyễn Văn Thành, Lê Chất, Nguyễn Đ́nh Đắc, Trương Tấn Bửu theo đường Phú Yên kéo ra đóng ở núi Thị Dă (Tuy Phước). Quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu chỉ huy đă chia cắt quân bộ và quân thủy của nhà Nguyễn, không cho liên lạc với nhau, làm cho quân Nguyễn không tiến được, phải án binh bất động và sau đó rút thủy quân về Gia Định chờ năm sau (1801) kéo đại binh trở ra quyết đánh một trận sống mái cùng quân Tây Sơn.

Theo kế hoạch quân nhà Nguyễn tiến công theo thế giọng kềm: một đạo quân đi từ hướng Phú Yên từ núi An Dương, nguồn An Tượng đánh ra, thủy binh đem thuyền nhỏ vượt ra bắc Thị Nại lẻn vào cửa Cách Thử để vào Thị Nại dùng hỏa công đốt thủy trại Tây Sơn, tạo điều kiện cho đạo thủy binh chính đánh úp Thị Nại. Thế trận đă chuẩn bị kỹ, Nguyễn Phúc Ánh tin quân Tây Sơn sẽ đại bại, thế nhưng khi đạo quân bộ vừa qua khỏi đất Phú Yên ra vùng An Dương, An Tượng đă bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Quang Huy dùng quân (chủ yếu là người thiểu số) mai phục đánh úp. Vốn quen địa h́nh rừng núi, các cánh quân người thiểu số của Huy đă vây đánh quân nhà Nguyễn một trận tơi bời. Đạo quân bộ đă thất bại, đạo quân thủy nhà Nguyễn cũng kịch chiến một trận "thư hùng" với thủy quân Tây Sơn tại cửa Thị Nại. Khi cánh quân bọc hậu của nhà Nguyễn lẻn qua cửa Cách Thử đốt thủy trại Tây Sơn, đạo thủy quân chính do Vơ Duy Nguy chỉ huy liền tiến đánh cửa Thị Nại. Súng của quân Tây Sơn trên hai pháo đài Gành Ráng và Phương Mai bắn xuống dữ dội, toàn bộ đoàn chiến thuyền tiên phong của nhà Nguyễn bị ch́m gần hết, Vơ Duy Nguy bị trúng đạn chết. Lê Văn Duyệt đốc binh tiếp theo liều chết vượt qua tầm đạn, dùng hỏa công đánh mạnh vào đội thuyền Tây Sơn. Gió thổi mạnh lửa cất cao sáng rực cả một góc biển. Kết quả, quân nhà Nguyễn bị chết vô số, thuyền chiến Tây Sơn cũng không c̣n chiếc nào. Vơ Văn Dũng thu quân, bỏ cửa Thị Nại kéo lên thành Quy Nhơn hợp cùng quân Trần Quang Diệu đóng giữ những nơi hiểm yếu. Chiếm được cửa biển Thị Nại, nhưng quân Nguyễn không đủ sức giải cứu thành Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh bèn để Nguyễn Văn Thành giữ cửa Thị Nại, sai các tướng lĩnh khác kéo quân lên đèo Cù Mông chống với Vơ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, c̣n ḿnh kéo đại quân ra đánh Phú Xuân, v́ lúc này Phú Xuân đang bỏ ngỏ.

Tuy nhiên, do không đủ lực quân nhà Nguyễn bị Trần Quang Diệu, Vơ Văn Dũng, Nguyễn Quang Huy phối hợp đánh tan. Thành Quy Nhơn vẫn trong ṿng vây khốn, Trần Quang Diệu đốc thúc ba quân công thành kịch liệt, buộc tướng giữ thành là Vơ Tánh phải tự thiêu và Ngô Tùng Châu uống thuốc độc tự vẫn. Tướng mất, cửa thành mở, quân Tây Sơn vào chiếm thành. Trần Quang Diệu ban lời khuyến dụ binh sĩ rồi chôn cất tử tế hai vị trung thần của nhà Nguyễn. Quang cảnh thành Quy Nhơn lúc bây giờ thật bi hùng, đó là ngày 27 tháng 5 năm Tân Dậu (1801).

Đầu năm 1802, sau khi lấy được Phú Xuân quân nhà Nguyễn do Lê Văn Duyệt và Lê Chất kéo vào Quy Nhơn, các tướng Tây Sơn: Vơ Văn Dũng, Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Văn Lộc đă chỉ huy quân Tây Sơn với 8.000 quân mai phục các vị trí trọng yếu trên núi Kỳ Sơn (phía đông nam thành Quy Nhơn) đánh một trận lớn đại phá 3 vạn quân của nhà Nguyễn. Đây là trận đánh cuối cùng của nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn trên đất Quy Nhơn trước khi Trần Quang Diệu bỏ thành Quy Nhơn, để cùng với Vơ Văn Dũng đem 3.000 quân, 800 thớt voi theo đường thượng đạo sang Lào ra Nghệ An vào thượng tuần tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802).

by Hữu Vinh

Mấy dấu tích về Tây Sơn trên đất Quảng Ngăi

Trong Hịch truyền quan lại, quân dân các phủ Quảng Nghĩa, Quy Nhơn năm 1792, vua Quang Trung có viết: "Trẫm đă chiến thắng khắp cả trong Nam, ngoài Bắc. Trẫm nhận rằng có được những chiến thắng ấy chính là nhờ có sự phù trợ hết ḷng của nhân dân hai phủ. Hai phủ cũng đă tiến cử lên trẫm nhiều người trung dũng, hiền tài để giúp rập triều đ́nh. Trẫm đem quân tới đâu, quân thù đều phải thất bại hoặc tan ră". Điều đó cho thấy Quang Trung đặc biệt quan tâm đến hai phủ Quy Nhơn và Quảng Nghĩa.

Ở tỉnh B́nh Định hiện vẫn c̣n lưu nhiều dấu tích về Tây Sơn; c̣n ở Quảng Ngăi, sau cuộc trả thù của Gia Long đối với những người theo Tây Sơn, tuy dấu tích về Tây Sơn đă bị xóa nhiều, song vẫn chưa phải đă hết và rất tiếc là cho đến nay vẫn chưa được t́m hiểu đầy đủ.

Trước đây, chúng tôi từng giới thiệu họ Vơ ở làng Châu Sa (Tịnh Châu, Sơn Tịnh) truyền rằng ḍng họ Vơ Văn Dũng vốn từ Châu Sa vào B́nh Khê sinh sống từ mấy đời trước Vơ Văn Dũng. Chúng tôi cũng từng giới thiệu ngôi mộ cổ kỳ lạ ở làng Đồng Xuân (xă Hành Thịnh, huyện Nghĩa Hành) tương truyền là phần mộ của Trần Quang Diệu. Chưa có ǵ thật chắc chắn, tuy nhiên, trên đường nghiên cứu điền dă, chúng tôi c̣n được biết thêm những dấu tích có liên quan đến Tây Sơn như sau:

Ở thôn Phước Toàn, thuộc xă Đức Ḥa, huyện Mộ Đức, có ḍng họ Trần tiền hiền c̣n giữ được gia phả. Theo đó, ông tổ họ là Trần Văn Đạt quê tổng Vạn Phúc, huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà Đông tùng chinh với vua Lê Thánh Tông năm 1471 và ở lại định cư tại đất này, mộ dân khai khẩn được hàng ngàn mẫu ruộng, lập Vạn Phước trại (tên quê cũ), sau mấy đời cùng dân địa phương tiếp tục khai khẩn lập được cả thảy 6 xă. Ḍng họ Trần khá phát đạt. Chuyện kể rằng đến khi Tây Sơn từ Quy Nhơn tiến quân ra, Nguyễn Huệ đă cho chiếm lấy nhà thờ họ Trần làm bản doanh, tịch thu cả của cải, ruộng đất th́ sung công. Nếu câu chuyện này là xác thực th́ quả nó minh chứng rất rơ chủ trương lấy của người giàu chia cho người nghèo của phong trào Tây Sơn, nó cũng cho thấy cách làm là khá mạnh tay, song có thể nhờ vậy mà Tây Sơn được dân nghèo và nghĩa sĩ ủng hộ.

Ở làng Mỹ Khê Tây (nay thuộc xă Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh) có hai ngôi mộ đất của vợ chồng Tú Đức hầu Trương Đăng Đồ. Sử triều Nguyễn từng chép, thân phụ đại thần Trương Đăng Quế là Trương Đăng Phác từng làm Tri phủ triều Tây Sơn, sau được Gia Long lưu nhiệm. Anh ruột ông Đăng Phác là Trương Đăng Đồ cùng vợ là Nguyễn Thị Dung (người huyện Mộ Đức) đều là tướng Tây Sơn. Bà Dung cùng 4 nữ tướng khác, trong đó có nữ tướng lừng danh Bùi Thị Xuân, được người đời gọi là "Tây Sơn ngũ phụng thư". Khi quân Nguyễn đánh chiếm Thăng Long, vợ chồng Tú Đức hầu pḥ vua Cảnh Thịnh chạy đi, nhưng rồi vua bị bắt, ông bà đă tự vẫn để giữ trọn khí tiết. Nhân dân sở tại đă chôn cất và thờ phụng. Nhưng làm cách ǵ mà mộ ông bà lại có ở Mỹ Khê Tây? Theo ḍng họ Trương, cho đến khi Trương Đăng Quế ra làm quan lớn dưới triều Nguyễn, ông đă bí mật nhờ người ra đưa hài cốt của ông bà về quê, có lẽ là bằng đường thủy.

Ở địa phận làng An Chỉ (nay thuộc xă Hành Phước, huyện Nghĩa Hành) có địa danh núi Định Cương, tên núi tương truyền do có quân Tây Sơn dừng lại ở đây và luyện tập. Cũng ở vùng này, người ta lượm được một số ḥm đạn gang to có lẽ là đạn súng thần công. Điều đáng chú ư là cách An Chỉ khoảng 3 km về phía đông nam có làng Chú Tượng có nghề thợ đúc nổi tiếng ở Quảng Ngăi, có bài vè thợ đúc với mấy câu: "Đúc đồ công dụng, đúc súng cho vua...". Phải chăng Chú Tượng (thuộc huyện Mộ Đức) từng tham gia đúc vũ khí cho phong trào Tây Sơn?

Ở làng Trà B́nh Trại (nay thuộc xă Tịnh Trà, huyện Sơn Tịnh) có đập Ông Cá, có thể được đắp vào đời Tây Sơn. Nhân sĩ của làng là cụ Tú tài Đinh Duy Tự (Nghè Kim) năm 1872 có viết bài phú "Đập Ông Cá" trong đó có viết: "... quân Tây (Sơn) khai ruộng đôi bên. Ông Cá (Nguyễn Mỗ) động binh kinh doanh, đắp bờ ngăn suối, vét mương hai ngả. Dẫn nước về đồng, tưới ruộng tưới vườn, dân chúng cậy nhờ bảy tám mươi năm, thiên hạ làm ăn đằm thắm các thôn nhiều xă...".

Ở làng Thiết Trường (nay thuộc thị trấn Mộ Đức) có một số địa danh mà người dân ở đây truyền rằng có liên quan đến phong trào Tây Sơn, như Ḷ Thổi là nơi luyện quặng, rèn đúc vũ khí; G̣ Tượng nơi cột nuôi voi; Vườn Bếp là nơi thổi cơm của quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu chỉ huy về đóng ở đây và tuyển mộ thêm binh lính. Tương tự như vậy, ở một xóm nay thuộc tỉnh lỵ Quảng Ngăi có tên Tàu Tượng tương truyền là nơi nhốt và luyện voi của nữ tướng Bùi Thị Xuân.

Ở làng Bồ Đề (nay thuộc xă Đức Nhuận, cũng huyện Mộ Đức) có chuyện xe nước làng Bồ Đề liên quan đến "Vua Nhạc", sau này được chủ sự hành chính Pháp ở Quảng Ngăi là La Borte ghi lại vào năm 1925. Chuyện truyền rằng người sáng chế ra các bờ xe nước nổi tiếng ở Quảng Ngăi là "lăo Thêm" người làng Bồ Đề, vào năm 1790, sau đó được "vua Nhạc" châu phê làm "Thính chấp bằng".

C̣n có khá nhiều những dấu tích khác về Tây Sơn trên đất Quảng Ngăi, như thung lũng Tuyền Tung (tây huyện B́nh Sơn) tương truyền là một căn cứ của Tây Sơn; như ở làng Kim Giao (Phổ Thuận, Đức Phổ) có ngôi mộ khá rộng, tương truyền là mộ của một vị tướng Tây Sơn... mà có những chuyện đă được một số tác giả giới thiệu, đây xin khỏi nhắc lại. Điều đó cho thấy dù bị nhà Nguyễn ra sức xóa dấu vết và trải lớp bụi thời gian hơn 200 năm, nhưng những dấu tích về Tây Sơn trên đất Quảng Ngăi vẫn c̣n rất đáng chú ư. Nó cho thấy tấm ḷng của người dân Quảng Ngăi đối với phong trào Tây Sơn cũng như sự ủng hộ của họ đối với phong trào. Rất nên nghiên cứu, t́m kiếm các dấu tích như vậy một cách đầy đủ, tất nhiên là với một tinh thần công phu, nghiêm túc và khoa học.

. Minh Tuệ

1




[ VIVODO Homepage ]
1